15/5/2002, sân Hampden Park, Scotland, diễn ra trận chung kết Champions League giữa Bayer Leverkusen và Real Madrid. Phút thứ 45, Zinedine Zidane ghi bàn bằng một cú vô-lê ngoài vòng cấm. Bàn thắng đó trở thành bất tử trong lịch sử bóng đá. Nhưng ít ai nhận ra Zidane đã thực hiện cú đá ấy ngay trước mặt cầu thủ hay nhất bên phía Bayer: Michael Ballack. Hình ảnh hôm ấy giống như một định mệnh, gán vào đó cả sự nghiệp mênh mông và trái ngược của hai cầu thủ này. Zidane toàn bích, có tất cả danh hiệu từ cá nhân đến tập thể. Còn Ballack luôn đứng trước ngưỡng vinh quang, lặng nhìn đối thủ chiến thắng, còn anh ôm trọn bi kịch.

Ballack (phải) đi lên và cũng kết thúc sự nghiệp trong nhiều nỗi buồn.
Lịch sử luôn nói về những cú ăn ba, nhưng lịch sử chưa bao giờ khắc lên đó một cú ăn ba về nhì như Bayer Leverkusen đã làm vào mùa giải 2001-2002. Vào cái năm mà Ballack vụt sáng thành ngôi sao ấy, cũng là năm mà đội bóng của anh có tất cả những nỗi buồn nhất.
Ngay từ khởi đầu, Ballack đã không hạnh phúc. Rồi anh mang hành trang ấy đến World Cup 2002, cùng đội tuyển Đức vừa chia tay cả một thế hệ vàng. Vậy nhưng, với Ballack thi đấu bùng nổ, "Die Mannschaft" đã tiến thẳng đến trận chung kết. Chính anh là người ghi bàn quyết định giúp Đức đánh bại đội chủ nhà Hàn Quốc trong trận bán kết. Và cũng chính anh hy sinh tấm vé dự trận chung kết khi lao tới cản phá cơ hội ghi bàn của Hàn Quốc. Người thủ lĩnh ấy, hơn 10 năm sau pha bóng đau đớn vẫn trả lời rằng: “Nếu thời gian quay trở lại và cho tôi lựa chọn, tôi vẫn sẽ xoạc quả bóng ấy mà thôi.” Sẵn sàng chấp nhận thương đau vì toàn cục, Ballack là một người đàn ông Đức hảo hạng.
Không khó hiểu khi anh nhanh chóng trở thành thủ lĩnh của “Cỗ xe tăng” Đức, kế thừa vai trò của những Matthaus, Sammer, Effenberg, Kahn... nhưng số phận đã đặt cả lên vai anh một sa mạc nước Đức cạn khô nhân tài, để bắt anh gách vác. Ballack đã ở đội tuyển Đức khi Jurgen Klinsmann, Oliver Bierhoff … vừa chia tay. Anh đã dìu dắt đội tuyển Đức khi Philipp Lahm và Bastian Schweinsteiger là hai cầu thủ non trẻ, còn Mario Gotze mới chỉ 10 tuổi. Vậy mà chàng trai đó vẫn đủ sức kéo đoàn quân không ngôi sao ấy vào đến hai trận chung kết (World Cup 2002, Euro 2008) và giành huy chương đồng ở World Cup 2006. Nước Đức những năm tháng mà Ballack làm thủ lĩnh, chỉ có mình anh ở đẳng cấp hàng đầu thế giới, còn các đồng đội đều bình thường. Vậy mà anh làm được những điều phi thường ấy. Nhưng đổi lại chàng trai có đôi mắt thăm thẳm này chỉ nhận về mình những nỗi buồn, và cả những bạc bẽo của hai năm cuối cùng đời cầu thủ.

Ballack là điển hình của người đàn ông Đức rắn rỏi, tài năng.
Khi nước Đức làm cách mạng với những Marco Reus, Mesut Ozil, Manuel Neuer… họ cần một đội trưởng biết dung hòa mọi thứ như Philipp Lahm hơn là một thủ lĩnh kiểu cổ điển mang dáng dấp “đại ca” như Ballack. Cá tính và sức ảnh hưởng của Ballack khiến Joachim Low và Liên đoàn bóng đá Đức phải e dè. Sự tự vệ của họ nhằm bảo vệ một đội tuyển Đức "mới" đã gây tổn thương cho Ballack. Anh như “hùm dữ sa cơ” mang trong mình sự uất ức đến cực độ. 98 trận đấu cho đội tuyển quốc gia, anh thiếu hai trận cuối cùng để gia nhập CLB 100. Và khi anh nói “Tôi không cần trận đấu thứ 100 ấy” là ta hiểu rằng anh từng thèm muốn nó biết bao. Gần một thập kỷ là người thủ lĩnh hét ra lửa, bỗng chốc nhận thấy mình như bị chối bỏ, sự đau đớn là điều khó tránh. Anh đã gồng gánh nền bóng đá Đức khi nó điêu tàn, và giã từ nước Đức khi nó hùng mạnh. Ngày chia tay, anh như chiếc lá vàng đơn côi rơi trong gió.
Ballack có thừa tài năng, rất nhiều bản lĩnh. Anh chơi tốt cả hai chân, đánh đầu cũng rất giỏi, đa năng ở các vị trí tiền vệ, kiến tạo tốt, đánh chặn cũng hay, có thể dẫn dắt thế trận, và sở hữu một lối chơi mạnh mẽ. Đặc biệt Ballack gói trọn được tinh thần thép của người Đức. Những cú đá phạt sấm sét, những lần bước lên chấm 11m vẫn sắc lạnh như dao. Tài năng là vậy, nhưng số phận thì rất bất công với Ballack. Anh ngã xuống, lại đứng dậy, lại đâm đầu vào một cuộc phiêu lưu mới, rồi lại ngã xuống, bi kịch nối tiếp bi kịch, vẫn không đánh gục được chàng trai này. Nhưng khi số phận cứ lần này đến lần khác hành hạ anh, thì đến cả nghị lực của anh cũng yếu lòng. Người ta không bao giờ quên được hình ảnh trong đêm mưa tại Moscow năm 2008, khi John Terry trượt chân trên chấm 11m, Ballack đã ngã quỵ xuống sân. Chứng kiến Man Utd giương cao chức vô địch, người đàn ông bản lĩnh đó lần đầu tiên rơi nước mắt.
Ngày chia tay, anh nói rằng “Đương nhiên những danh hiệu sẽ được đánh giá cao. Nhưng tôi hy vọng mọi người sẽ nhớ tới tôi như một cầu thủ đặc biệt.” Ballack không sai chút nào, người hâm mộ nhớ rất nhiều về anh, chàng trai mang đậm vẻ đẹp Đức, tính cách Đức cổ điển, nụ cười hồn hậu khi có vinh quang nhưng bị che phủ bởi bao nhiêu là thất bại trước ngưỡng cửa thiên đường. Các cổ động viên có thể yêu Zidane vì những nét đẹp trong mỗi đường bóng, có thể yêu Batistuta vì tính chung thủy, có thể yêu “Người ngoài hành tinh” Ronaldo bởi những bàn thắng, thì họ đã yêu Ballack bằng chính những bi kịch trên đôi chân dũng cảm. Giá trị ấy đã biến anh thành kẻ chiến thắng.
Dũng Phan