Đây là chiến thắng thứ chín của Hamilton - cũng là lần thứ 13 kể từ đầu mùa một trong hai tay đua của Mercedes có được vị trí nhất chặng. Sau 16 chặng đua, đội đua nước Đức đã có 565 điểm, bỏ xa đối thủ đứng tiếp theo là Red Bull tới 223 điểm trong khi mùa giải chỉ còn ba chặng. Đây mới là lần đầu Mercedes chính thức có được ngôi vô địch thế giới. Tiền thân của đội Mercedes là Brawn GP từng vô địch tập thể năm 2009.
Sau chặng đua, Hamilton nói: “Hôm nay, tại đây, chiếc xe của chúng tôi quả thực rất mạnh mẽ. Chặng đua này sẽ được ghi nhớ trong lịch sử của chúng tôi. Tôi tự hào khi đóng góp một phần trong thành tích hôm nay. Việc Mercedes-Benz lần đầu có được ngôi vô địch giúp hôm nay trở thành một ngày tuyệt vời.”
Hamilton trở thành tay đua mở hàng chiến thắng tại đường đua Sochi. Ảnh: Formula 1. |
Trước khi chặng đua mở màn đường đua Sochi (Nga), nhiều quan chức làng F1 cùng các tay đua và khán giả đã dành một phút để thể hiện sự ủng hộ dành cho tay đua Jules Bianchi (đội Marussia), người vẫn đang hôn mê sau vụ tai nạn nghiêm trọng tại đường đua Suzuka (Nhật Bản) hôm Chủ nhật 5/10.
Chặng đường dẫn đến chiến thắng thứ tư liên tiếp của ngôi sao người Anh Hamilton gần như suôn sẻ suốt 53 vòng đua, từ khi xuất phát cho tới lúc kết thúc Grand Prix Nga. Giây phút hồi hộp duy nhất với “Viên ngọc đen” là lúc đồng đội Rosberg vượt lên từ thời điểm xuất phát trước khi đoàn đua đi tới Turn 2.
Tuy nhiên, việc chiếc W05 của tay đua người Đức lách bên trong ngay tại lối vào Turn 2 và phanh muộn khi đang ở tốc độ gần 300km/h khiến Rosberg buộc phải phanh gấp và chạy tắt tại vị trí này. Vẫn giữ được vị trí dẫn đầu vừa lấy được nhưng Rosberg được lệnh phải trả lại vị trí do hưởng lợi trái luật.
Pha phanh gấp của Rosberg tại Turn 2 lúc xuất phát. Ảnh: Formula 1. |
Pha xử lý của tay đua người Đức không những không chiếm được vị trí số một của người đồng đội mà còn khiến anh lâm vào thế bất lợi và căng thẳng suốt phần còn lại của cuộc đua. Pha phanh gấp tại Turn 2 khiến lốp xe của anh bị hư hại và chiếc W05 được yêu cầu về pit ngay lập tức để thay lốp. Để đảm bảo tính cạnh tranh cho Rosberg, Mercedes quyết định chuyển sang sử dụng lốp trung bình hòng không phải thay lốp thêm một lần nữa. Dù phải sử dụng bộ lốp trung bình suốt 52 vòng đua và lúc đầu tụt xuống tận thứ 20, Rosberg vẫn đủ sức về nhì và kém đồng đội Hamilton có 13,6 giây.
Tay đua xuất phát thứ ba Valtteri Bottas (đội Williams) là người duy nhất trong cuộc đua có thể gây khó dễ cho bộ đôi Mercedes. Tay đua người Phần Lan giữ vững khoảng cách tầm bốn giây với Hamilton trong suốt 15 vòng đua đầu tiên. Tuy nhiên, sau đó Bottas dần tụt lại khi Hamilton giữ lốp tốt hơn hẳn.
Sau khi vào thay lốp tại vòng 28, Bottas chỉ còn hơn Rosberg có 1,3 giây. Tới vòng 32, tay đua người Đức dễ dàng lấy lại được vị trí thứ hai khi vượt qua đối thủ tại Turn 2. Bottas tỏ ra không quá quyết liệt phòng thủ khi tin rằng đối thủ sớm muộn sẽ chậm lại do thay lốp quá sớm. Lúc này, Rosberg vẫn còn kém Hamilton tới hơn 20 giây.
Mãi tới những vòng cuối, Bottas mới có thể gây sức ép lại với Rosberg. Tuy nhiên lợi thế mà tay đua người Phần Lan có được từ bộ lốp mới hơn là không đủ để anh tạo ra áp lực đáng kể lên Rosberg. Khi kết thúc cuộc đua, Bottas vẫn kém đối thủ tới 3,7 giây và đành chấp nhận vị trí thứ ba.
Đội đua Mercedes ăn mừng khi sớm lên ngôi trước 3 chặng đua. Ảnh: Formula 1. |
Về đích ngay sau Bottas lần lượt là hai tay đua của McLaren, Jenson Button và Kevin Magnussen. Bộ đôi McLaren có được vị trí thứ tư và thứ năm một cách khá nhàn hạ khi đối thủ nguy hiểm nhất là Fernando Alonso bị tụt xuống thứ sáu do đánh mất tới 7,5 giây để thay lốp bởi sự vụng về của các kỹ thuật viên Ferrari. Cuối cuộc đua, tay đua người Tây Ban Nha còn bị Daniel Ricciardo gây sức ép liên tục để hòng chiếm vị trí thứ sáu.
Người đồng đội đàn anh của Ricciardo, Sebastian Vettel chỉ về đích thứ tám dù đã vượt lên phía trước đàn em ở nửa đầu cuộc đua. Tuy nhiên, việc Ricciardo thay lốp sớm hơn đồng đội và tránh được traffic phía trước giúp anh vượt qua được Vettel sau khi nhà đương kim vô địch thế giới thay lốp tại vòng 32.
Tay đua chủ nhà Daniil Kvyat và đồng đội Jean Eric Vergne (Toro Rosso) dù có vị trí xuất phát rất hứa hẹn nhưng không thể về đích trong top 10 tại đường đua nhà khi cả hai phàn nàn họ buộc phải cố gắng chạy ở chế độ tiết kiệm nhiên liệu do tốc độ tiêu hao nhiên liệu ở mức báo động. Một số tay đua khác như Magnussen và Sergio Perez cùng phàn nàn về việc phải kiềm chế tốc độ do mức tiêu hao nhiên liệu cao.
Việc Vettel và Alonso chỉ lần lượt về đích ở vị trí thứ tám và thứ sáu đã giúp Bottas leo lên vị trí thứ tư trên bảng xếp hạng cá nhân sau Grand Prix Nga. Trong khi đó, ở phía trên Hamilton đã nhiều hơn Rosberg 17 điểm. Ngôi vô địch cá nhân gần như chỉ là còn là cuộc chiến nội bộ giữa hai tay đua Mercedes khi tay đua tiếp theo Ricciardo đã kém Hamilton tới 92 điểm.
Kết quả Grand Prix Nga
Thứ tự |
Tay đua |
Đội |
Vị trí xuất phát |
Thành tích |
Điểm |
1 |
Lewis Hamilton |
Mercedes |
1 |
1 giờ 31 phút 50,744 giây |
25 |
2 |
Nico Rosberg |
Mercedes |
2 |
+13,657 giây |
18 |
3 |
Valtteri Bottas |
Williams |
3 |
+17,425 |
15 |
4 |
Jenson Button |
McLaren |
4 |
+30,234 |
12 |
5 |
Kevin Magnussen |
McLaren |
11 |
+53,616 |
10 |
6 |
Fernando Alonso |
Ferrari |
7 |
+60,016 |
8 |
7 |
Daniel Ricciardo |
Red Bull |
6 |
+61,812 |
6 |
8 |
Sebastian Vettel |
Red Bull |
10 |
+66,185 |
4 |
9 |
Kimi Raikkonen |
Ferrari |
8 |
+78,877 |
2 |
10 |
Sergio Perez |
Force India |
12 |
+80,067 |
1 |
11 |
Felipe Massa |
Williams |
18 |
+80,877 |
0 |
12 |
Nico Hulkenberg |
Force India |
17 |
+81,309 |
0 |
13 |
Jean-Eric Vergne |
Toro Rosso |
9 |
+97,295 |
0 |
14 |
Daniil Kvyat |
Toro Rosso |
5 |
+1 vòng |
0 |
15 |
Esteban Gutierrez |
Sauber |
13 |
+1 vòng |
0 |
16 |
Adrian Sutil |
Sauber |
14 |
+1 vòng |
0 |
17 |
Romain Grosjean |
Lotus |
15 |
+1 vòng |
0 |
18 |
Pastor Maldonado |
Lotus |
21 |
+1 vòng |
0 |
19 |
Marcus Ericsson |
Caterham |
16 |
+2 vòng |
0 |
20 |
Kamui Kobayashi |
Caterham |
19 |
Bỏ dở cuộc đua |
0 |
21 |
Max Chilton |
Marussia |
20 |
Bỏ dở cuộc đua |
0 |
*) Fastest-lap: 1 phút 40,896 giây do Valtteri Bottas (Williams) lập tại vòng 53.
Bảng xếp hạng cá nhân sau Grand Prix Nga
Thứ tự |
Tay đua |
Đội |
Điểm |
1 |
Lewis Hamilton |
Mercedes |
291 |
2 |
Nico Rosberg |
Mercedes |
274 |
3 |
Daniel Ricciardo |
Red Bull |
199 |
4 |
Valtteri Bottas |
Williams |
145 |
5 |
Sebastian Vettel |
Red Bull |
143 |
6 |
Fernando Alonso |
Ferrari |
141 |
7 |
Jenson Button |
McLaren |
94 |
8 |
Nico Hulkenberg |
Force India |
76 |
9 |
Felipe Massa |
Williams |
71 |
10 |
Kevin Magnussen |
McLaren |
49 |
11 |
Sergio Perez |
Force India |
47 |
12 |
Kimi Raikkonen |
Ferrari |
47 |
13 |
Jean-Eric Vergne |
Toro Rosso |
21 |
14 |
Romain Grosjean |
Lotus |
8 |
15 |
Daniil Kvyat |
Toro Rosso |
8 |
16 |
Jules Bianchi |
Marussia |
2 |
17 |
Adrian Sutil |
Sauber |
0 |
18 |
Marcus Ericsson |
Caterham |
0 |
19 |
Pastor Maldonado |
Lotus |
0 |
20 |
Esteban Gutierrez |
Sauber |
0 |
21 |
Max Chilton |
Marussia |
0 |
22 |
Kamui Kobayashi |
Caterham |
0 |
23 |
Andre Lotterer |
Caterham |
0 |
Bảng xếp hạng đội đua sau Grand Prix Nga
Thứ tự |
Đội đua |
Điểm |
1 |
Mercedes |
565 |
2 |
Red Bull |
342 |
3 |
Williams |
216 |
4 |
Ferrari |
188 |
5 |
McLaren |
143 |
6 |
Force India |
123 |
7 |
Toro Rosso |
29 |
8 |
Lotus |
8 |
9 |
Marussia |
2 |
10 |
Sauber |
0 |
11 |
Caterham |
0 |
Minh Phương